Thích bài này? Bài trướcBài sau

ızʎʞıƃ

Fri May 31, 2013 3:29 pm

#1

ızʎʞıƃ

ızʎʞıƃ

351
1
11
28/05/2013
27
Member Vip
Member Vip
Bài gửi : 351
G-Point : 1
Liked : 11
Tham gia : 28/05/2013
Tuổi : 27
Bị thiêu sống p3 EmptyBị thiêu sống p3

PHẦN 3: HANAN?
Luôn tồn tại nỗi sợ về cái chết và cánh cổng sắt khép chặt cuộc đời của những đứa con gái được sống nhưng lúc nào cũng phải ngoan ngoãn phục tùng. Em trai tôi Assad, được đến trường với chiếc cặp da. Em trai tôi, Assad được cưỡi ngựa và đi dạo. Em trai tôi, Assad không ngồi ăn cùng chúng tôi. Nó trưởng thành đúng theo cách trưởng thành của một người đàn ông, tự do và kiêu hãnh, được bọn con gái trong nhà phục tùng như một ông hoàng. Tôi yêu mến nó như yêu một ông hoàng. Lúc nó còn bé, tôi đun nước tắm cho nó, tôi gội đầu cho nó, tôi chăm sóc cho nó như một kho tàng vô giá. Tôi không biết gì về cuộc sống bên ngoài gia đình của nó, tôi cũng không biết về những cái nó học được ở ngôi trường ấy cùng những điều nó thấy và làm ở thành phố. Chúng tôi đợi cho đến khi nó đi lấy vợ: ngoài việc sinh được một đứa con trai thì đám cưới là việc hệ trọng nhất trong một gia đình.
Assad rất khôi ngô. Khi nó còn là một đứa trẻ, tôi và nó rất thân thiết, thân thiết hết mức so với quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Chỉ hơn nó một tuổi mà lại sinh ngay trước nó nên trong một thời gian, tôi có may mắn được ở bên nó nhiều. Tôi không nhớ mình có được chơi đùa với nó như bọn trẻ con ở Châu Âu cỡ tuổi ấy chơi đùa với nhau hay không. Đến năm mười bốn, mười lăm tuổi, nó trở thành một người đàn ông và nó đã rời xa tôi. Tôi chắc là nó lấy vợ rất sớm, có lẽ vào năm mười bảy tuổi. Rồi nó trở nên hung bạo. Cha tôi ghét nó lắm. Tôi không biết lý do tại sao ông lại ghét nó đến thế… Có lẽ vì nó giống ông quá. Ông sợ bị đứa con trai đã trưởng thành chiếm đoạt quyền hành. Tôi không hiểu do đâu hai cha con lại tỏ ra giận dữ với nhau như vậy, nhưng một hôm tôi trông thấy cha tôi lấy một cái sọt, đổ tất cả những thứ đựng trong sọt ra rồi cho đầy đá vào. Sau đó ông bê cái sọt lên sân thượng và ném đá xuống đầu Assad như thể muốn giết chết nó.
Sau đám cưới vợ chồng Assad vẫn sống cùng cả gia đình. Tôi nhanh chóng hiểu ra rằng tính hung bạo của những người đàn ông trong làng tôi đã bắt nguồn từ xa xưa. Cái tính hung bạo ấy được truyền từ đời cha cho con trai rồi đến lượt người con trai truyền cho các thế hệ kế tiếp.
Từ hai mươi năm nay tôi chưa một lần được gặp lại gia đình mình nhưng nếu có một phép lạ cho tôi gặp lại em trai tôi, tôi sẽ hỏi nó một câu duy nhất: “Đứa em gái mất tích, đứa em gái mà chị gọi tên là Hanan ấy, nó đâu rồi?”
Hanan…Tôi nhớ nó có màu da nâu sậm. Nó rất xinh, xinh hơn tôi với mái tóc dày và cũng “chín” hơn về thể chất. Tôi còn nhớ là chị Kainat dịu dàng dễ mến và hơi béo, còn Hanan thì tính tình khác hẳn, hơi nóng nảy và bướng bỉnh hơn chúng tôi. Cặp lông mày mọc rậm, hai đầu mày gần như chạm vào nhau. Nó không béo nhưng người ta cảm thấy sau này nó có thể là một cô gái khoẻ khoắn và tròn trịa. Hanan không mảnh khảnh như tôi. Những lần đi giúp chúng tôi nhặt ôliu, nó làm việc chậm chạp, di chuyển cũng chậm chạp. Đó không phải là thói quen trong gia đình chúng tôi: chúng tôi bước đi nhanh, chúng tôi làm việc nhanh, chúng tôi gần như chạy để nghe kịp sai bảo. Hanan không được hoạt bát cho lắm, lại hay mơ mộng và không bao giờ để tâm đến người lớn dặn dò. Khi đi thu hoạch ôliu chẳng hạn, trong khi tôi đau hết mấy ngón tay để nhặt đầy cả chậu thì đáy chậu của nó vẫn còn chưa kín. Thành thử tôi phải quay lại nhặt giúp nó. Chứ nếu để nó lẹt đẹt mãi phía sau thì nhất định nó sẽ gặp rắc rối với cha tôi. Tôi còn nhớ mỗi lần quay lại tôi vẫn thấy Hanan còn loay hoay ở đằng sau, cử chỉ chậm chạp như đoạn phim quay chậm. Nó thực sự rất khác biệt, và tôi nhớ hồi ấy tôi không trò chuyện với nó hay đặc biệt quan tâm đến nó, trừ những lần thấy cần phải giúp nó nhặt ôliu, hoặc tết mớ tóc dày của nó thành cái bím to như tôi đã bảo nó phải làm cho tôi. Không bao giờ tôi trông thấy nó đứng trong chuồng cừu với chúng tôi hay trông thấy nó vắt sữa bó hoặc xén lông cừu…Nó chỉ loanh quanh trong bếp giúp mẹ tôi. Có lẽ vì thế mà hình ảnh của nó hầu như biến mất trong ký ức tôi mặc dù tôi đã đếm đi đếm lại, cố sắp xếp theo thứ tự được sinh ra: Noura, Kainat, Souad, Assad, và…? Đứa em gái thứ tư của tôi không còn tồn tại nữa, đến tên nó tôi cũng quên. Nhiều lúc tôi cũng không biết trong chị em chúng tôi đứa nào đã được sinh ra trước đứa nào. Về phần chị Noura thì tôi chắc rồi, về phần thằng Assad cũng thế nhưng chị Kainat thì ngay cả bây giờ tôi vẫn còn lẫn lộn không sao phân biệt được giữa chị và tôi. Còn về đứa em mà tôi thường gọi bằng cái tên Hanan thì điều khổ tâm nhất của tôi là từ nhiều năm nay hình như toi không còn tự đặt câu hỏi về sự mất tích của nó nữa.
Tôi đã hoàn toàn “quên” nó, tựa như một cánh cổng sắt đã khép lại, che mất hình ảnh đứa em gái máu mủ đó khiến ký ức vốn đã mơ hồ của tôi không còn lưu giữ gì nhiều về nó.
Tuy nhiên cách đây không lâu, một hình ảnh, một cảnh tượng ghê sợ đã ập đến trong tâm trí tôi. Trong một cuộc họp của hội phụ nữ, có người cho tôi xem bức ảnh chụp một cô gái đã chết, nằm dài trên mặt đất, cổ bị siết bằng một sợi dây màu đen, một sợi dây điện thoại. Tôi có cảm giác trước đây mình đã có lần nhìn thấy một hình ảnh tương tự như vậy. Bức ảnh khiến tôi bàng hoàng không phải chỉ vì cô gái đáng thương ấy mà còn vì tôi cố mò mẫm như đang đi trong sương mù để “thấy” một cái gì đó liên quan đến tôi. Và ngày hôm sau, kì lạ thay, ký ức của tôi bỗng nhiên bừng tỉnh. Tôi đã có mặt ở đó! Tôi đã trông thấy! Tôi đã biết đứa em gái Hanan chết khi nào!
Từ đó tôi sống với cơn ác mộng ấy trong đầu và rồi phát ốm vì nó. Từng kỉ niệm chính xác, từng phân cảnh cuộc đời đã qua của tôi cứ như tình cờ ùa về làm tôi khổ sở đến phát bệnh. Tôi muốn quên hoàn toàn tất cả những chuyện khủng khiếp ấy đi và trong hơn hai mươi năm qua tôi đã làm được, dù chỉ là vô thức. Nhưng nếu muốn làm một nhân chứng để nói về cuộc đời tôi đã trải qua trên đất nước tôi, từ lúc còn là một bé gái thơ dại đến lúc trở thành đàn bà, tôi bắt buộc phải ngụp lặn trong tâm trí mình như lặn sâu xuống đáy của chiếc giếng ngày xưa đã từng làm tôi khiếp đảm. Và bây giờ, tất cả những mảnh vụn của quá khứ đang tranh nhau nổi lên mặt nước dường như có vẻ quá kinh khủng đến nỗi tôi thấy khó mà tin được. Nhiều lúc tôi bất giác buột miệng: “Có thật những điều đó đã xảy ra trong cuộc đời mình không?”
Tôi đã trải qua những điều đó và tôi đã sống sót. Nhiều phụ nữ khác trên thế giới đã sống qua những cảnh ngộ ấy và hiện giờ có lẽ vẫn đang phải sống như vậy. Tôi rất muốn quên, nhưng những phụ nữ may mắn được thoát chết để có thể nói lên sự thật lại quá ít, thành ra tôi thấy mình có nghĩa vụ phải đứng ra làm một chứng nhân và một lần nữa làm sống lại những cơn ác mộng ấy.
Tôi ở trong nhà và nghe có tiếng kêu thét, rồi tôi trông thấy Hanan ngồi dưới đất, tay chân giãy đạp loạn xạ, còn Assad đang giang rộng cánh tay và cúi lom khom trên người con bé. Nó đang siết cổ Hanan bằng sợi dây điện thoại. Tôi nhớ rất rõ hình ảnh này như vừa được nhìn thấy hôm qua. Tôi dán người sát vào tường như thể muốn chui luôn vào đó và biến mất trong đó. Lúc ấy có cả hai đứa em gái cùng cha khác mẹ. Tôi đứng chắn trước mặt chúng để che chở cho chúng. Tôi giữ chặt tóc chúng để chúng đứng yên. Có lẽ Assad đã nhìn thấy chúng tôi hoặc nghe tiếng chân tôi , nó hét: “Rouhi! Rouhi! Xéo đi! Xéo ngay!”
Tôi kéo hai đứa em chạy về phía cầu thang xi măng dẫn về phòng ngủ. Một trong hai đứa sợ đến nỗi bị ngã sái chân nhưng tôi vẫn bắt nó phải tiếp tục chạy, không được ngừng. Toàn thân tôi run bần bật. Vào trong phòng, tôi cài chặt cửa và dỗ dành con bé. Tôi cố xoa bóp để đầu gối nó đỡ đau và cả ba chị em ngồi im trong phòng thật lâu, không dám gây ra bất cứ tiếng động nào. Tôi không thể làm được gì, hoàn toàn không thể làm được gì, hoàn toàn không thể làm được gì ngoài việc giữ im lặng trước cảnh tượng ghê rợn vừa rồi.
Em trai tôi đã siết cổ em gái tôi…Lúc ấy có lẽ Hanan đang nói chuyện điện thoại thì thằng Assad bất ngờ từ đằng sau tiến đến siết cổ nó…Hanan đã chết, tôi chắc chắn rằng nó đã chết.
Hôm ấy Hanan mặc quần ống phồng màu trắng với áo sơ mi dài đến đầù gối. Đi chân đất. Tôi thấy con Hanan quẫy đạp hai chân, tôi thấy nó vung hai tay đánh vào mặt thằng Assad trong lúc thằng Assad hét: “Xéo đi! Xéo ngay!”
Chiếc điện thoại màu đen, hình như thế. Điện thoại được đặt dưới đất trong gian phòng chính với sợi dây rất dài. Lúc ấy chắc Hanan đang gọi điện thoại nhưng tôi không biết nó gọi ai và tại sao lại gọi. Tôi không biết mình đang làm gì trước khi xảy ra chuyện đó, cũng không biết mình đang ở đâu, cũng không biết về phần Hanan, đã làm những gì, nhưng theo như tôi biết, trong cách cư xử của nó không có gì sai trái đến mức Assad muốn siết cổ nó. Tôi thực không hiểu việc gì đã xảy ra.
Tôi ngồi im trong phòng với hai con bé cho đến lúc mẹ tôi về. Bà đã đi ra ngoài cùng với cha tôi. Chỉ có mình Assad ở nhà với chúng tôi. Tôi đã mất rất nhiều thời gian để tìm hiểu xem tại sao hôm ấy trong nhà lại không có một ai khác ngoài Assad và chúng tôi. Rồi sau đó, những tình tiết dần được liên kết với nhau.
Hôm ấy cha mẹ tôi đi thăm vợ Assad tại nhà bố mẹ cô này. Cô đang có thai và bị Assad đánh đập nên trốn về nhà cha mẹ đẻ. Đó là lý do tại sao Assad ở nhà một mình với chúng tôi. Và nó đang giận điên lên, giống như những người đàn ông khác khi phải chịu điều sỉ nhục này. Như thường lệ, tôi chỉ có những mẩu thông tin vụn vặt về chuyện xày ra trong nhà. Mỗi khi có rắc rối, bọn con gái không được phép tham dự vào cuộc họp gia đình. Bọn con gái không được phép đến gần. Sau này tôi mới biết cô em dâu bị sẩy thai và tôi đoán bố mẹ cô ấy đã đổ hết trách nhiệm lên đầu Assad. Nhưng hôm ấy, hai sự việc lại chẳng liên quan gì đến nhau. Hanan gọi điện thoại để làm gì? Rất hiếm khi chúng tôi dùng đến điện thoại. Chính tôi, tôi cũng chỉ dùng nó hai hay ba lần để nói chuyện với chị cả, với dì tôi hoặc với vợ Assad. Nên Hanan gọi điện cho ai thì nhất định người ấy phải là người trong gia đình.
Chiếc điện thoại ấy đã ở trong nhà tôi từ khi nào? Dạo ấy, trong làng chẳng mấy nhà có điện thoại… Cha tôi đã mua nhiều thiết bị hiện đại cho ngôi nhà. Chúng tôi có phòng tắm với bình nóng lạnh và dĩ nhiên có cả điện thoại….
Khi cha mẹ tôi về đến nhà, tôi biết mẹ đã nói chuyện với Assad. Tôi trông thấy bà khóc nhưng bây giờ thì tôi biết là bà chỉ giả vờ khóc. Lúc này tôi đã thực tế hơn, và tôi hiểu mọi việc trên đất nước tôi xảy ra như thế nào. Tôi biết tại sao người ta lại giết con gái. Tôi biết diễn biến sự việc ấy ra sao. Một cuộc họp gia đình ra quyết định và đến ngày định mệnh cả cha lẫn mẹ đều phải đi vắng. Ở nhà chỉ có đứa con gái và kẻ đã được gia đình chỉ định để ra tay.
Mẹ tôi không thực sự khóc. Bà không khóc! Đó chỉ là một màn kịch. Chắc chắn bà biết rõ tại sao Assad siết cổ em gái tôi. Nếu không biết thì tại sao đúng ngày hôm ấy mẹ, cha và chị Noura đều đi vắng? Tại sao lại để chúng tôi ở nhà một mình với Assad? Điều mà tôi không được biết đó là lý do tại sao Hanan bị kết án. Có lẽ nó đã phạm tội lỗi nào đó mà tôi không biết đó là tội gì. Đi ra ngoài một mình chăng? Hay có ai trông thấy nó nói chuyện với một người đàn ông? Hay một hàng xóm đã mách tội nó? Chỉ cần một việc còn con cũng đủ làm nó trở thành một charmuta, rằng nó đã làm nhục gia đình, và nó phải chết để bảo toàn danh dự không những cho cha, cho mẹ, em trai mà còn cho cả làng nữa!
Tuy kém tuổi hơn tôi nhưng Hanan lại “chín chắn” hơn tôi. Có lẽ nó đã phạm một lỗi bất cẩn nào đó mà tôi không biết. Bọn con gái không hay đem chuyện thầm kín nói cho nhau nghe. Chúng rất sợ nói ra, dù là nói với chị em ruột. Điều này tôi biết rất rõ vì chính tôi cũng không dám nói cho ai biết tâm sự của mình….
Tôi rất yêu quý em trai tôi. Tất cả chị em chúng tôi đều yêu nó vì nó là người đàn ông duy nhất trong gia đình. Sau cha tôi, nó là người duy nhất có thể che chở cho chúng tôi. Nếu không may cha tôi chết đi thì nó sẽ thay ông lèo lái cả gia đình, nếu đến lượt nó cũng chết, nếu trong nhà chỉ còn đàn bà con gái thì gia đình sẽ tiêu vong. Lúc ấy sẽ chẳng còn cừu, chẳng còn ruộng vườn, sẽ chẳng còn gì cả. Điều tồi tệ nhất của một gia đình là mất đi người anh hoặc em trai duy nhất. Làm sao sống được nếu trong nhà không có đàn ông? Chính đàn ông là người đề ra luật lệ bảo vệ chúng tôi, chính con trai là người thay thế người bố và gả chồng cho các chị em gái.
Assad cũng hung bạo như cha tôi. Nó là “kẻ giết người”, nhưng ở đất nước tôi, khi giết một đứa con gái thì ba từ này chẳng có ý nghĩa gì hết. Người anh em ruột, anh em rể, hoặc bất cứ người bác, người chú, đều có thể thực hiện nhiệm vụ bảo toàn danh dự cho gia đình. Họ có quyền quyết định mạng sống của đàn bà con gái trong nhà. Nếu cha hoặc mẹ bảo anh con trai: “Em gái mày đã phạm tội, mày phải giết nó…” thì anh ta sẽ làm ngay để bảo toàn danh dự gia đình, đó là luật.
Assad là đứa em chúng tôi rất thương yêu. Có lần nó bị ngã ngựa–nó rất thích cưỡi ngựa đi dạo. Con ngựa bị trượt chân và nó ngã. Chúng tôi khóc rất nhiều, tôi vẫn nhớ như in. Vừa khóc tôi vừa xé áo và bứt tóc. Cũng may là cú ngã không nặng lắm và chúng tôi đã chăm sóc nó. Trái lại, khi cha tôi ngã gãy chân thì chúng tôi vui mừng đến độ tưởng chừng có thể ôm nhau nhảy múa. Và ngay đến bây giờ, tôi vẫn không tưởng tượng nổi Assad là một thằng giết người. Cảnh tượng em gái tôi bị siết cổ đến chết thật là một cơn ác mộng, nhưng lúc bấy giờ tôi không thể giận thằng Assad. Việc nó đã làm là một chuyện bình thường, nó phải chấp nhận làm việc ấy vì nghĩa vụ, bởi đó là việc cần thiết cho gia đình. Vả lại tôi rất yêu thương nó.
Tôi không biết sau đấy người ta làm gì với xác của Hanan, chỉ biết rằng nó biến mất hoàn toàn. Tôi đã quên nó. Tôi cũng không hiểu rõ lý do tại sao. Hồi ấy, sau nỗi sợ hãi chắc chắn còn có lô–gic sống của cuộc đời, còn có phong tục tập quán, luật lệ, tất cả những gì buộc chúng tôi phải chịu đựng những chuyện đó “một cách bình thường”. Những chuyện như thế chỉ được xem là khủng khiếp, là tội ác ở nơi khác, ở các nước phương Tây, ở những nước mà nền tảng luật pháp có sự khác biệt. Chính tôi, hồi đó tôi cũng tưởng mình sẽ phải chết và việc được cứu sống nhờ phép lạ sau khi bị thứ luật lệ quen thuộc kia tuyên án tử hình, đã làm đầu óc tôi bị xáo trộn trong một thời gian dài. Bây giờ tôi đoán có lẽ hồi ấy tôi bị sốc và những gì mà chính tôi đã trải nghiệm càng làm trầm trọng thêm cú sốc ấy, đến mức tôi không thể nhớ được một vài sự kiện. Chính một bác sĩ chuyên khoa tâm thần đã nói với tôi như thế.
Vậy là tôi đã biết tại sao Hanan biến mất khỏi cuộc đời và ký ức của tôi. Có thể nó đã được chôn cùng với những bé gái sơ sinh khác. Có thể nó đã bị đốt thành tro, vùi dưới một bờ đất dốc hay trong một cánh đồng. Cũng có thể người ta quẳng xác nó cho chó? Tôi không biết. Mỗi khi kể về quãng đời trước đây của tôi ở ngôi làng cũ, tôi thấy rõ qua ánh mắt của mọi người một điều rằng họ rất khó có thể hiểu được. Họ hỏi tôi nhiều câu hỏi mà họ cho là lôgic: “Thế cảnh sát có đến không?”, “Mất tích như thế sao chẳng có ai thắc mắc gì?”, “Những người trong làng nói sao?”
Đời tôi chưa bao giờ thấy một viên cảnh sát nào. Chuyện một người đàn bà mất tích chẳng có nghĩa lí gì. Người trong làng đều nhất loạt tán thành những luật lệ của cánh đàn ông. Gia đình nào không chịu giết đứa con gái đã làm nhục gia môn sẽ bị cả làng lánh xa, không ai muốn nói chuyện hay giao dịch, làm ăn với gia đình đó. Gia đình ấy chỉ có cách bỏ nhà đi nơi khác! Vậy nên…
Đứng từ góc độ của tôi hiện nay mà nhìn lại sẽ thấy số phận em gái tôi tồi tệ hơn tôi rất nhiều, Nhưng nó lại có cái may mắn là nó đã chết. Như thế ít ra nó không phải chịu đau khổ nữa.
Những tiếng kêu thét của Hanan tôi vẫn còn nghe văng vẳng bên tai. Nó đã kêu thét rất to! Suốt thời gian dài, tôi và chị Kainat vẫn còn lo sợ cho số phận của chính mình. Mỗi lần nhìn thấy cha tôi, em trai tôi hay anh rể tôi, chồng chị Noura, chúng tôi lại cảm thấy lo sợ điều gì đó sẽ xảy ra cho chúng tôi. Nhiều khi chúng tôi sợ đến mức không ngủ được. Ban đêm, tôi thường giật mình tỉnh giấc. Tôi cảm thấy có một mối đe doạ thường trực. Assad lúc nào cũng giận dữ và hung bạo. Nó không được phép đi gặp vợ: cô ta bị nó đánh đập mãi nên vừa ra khỏi bệnh viện là quay thẳng về nhà bố mẹ đẻ. Tuy nhiên, cô ta vẫn phải trở lại sống với nó, luật là như vậy. Cô ta đẻ cho nó mấy đứa con khác, cũng may toàn con trai. Chúng tôi rất tự hào về Assad, vẫn thương yêu nó rất nhiều mặc dù nó làm chúng tôi sợ. Có một điều mà tôi không hiểu là tại sao càng thương yêu Assad tôi càng căm ghét cha tôi bấy nhiêu. Suy cho cùng hai người ấy chẳng khác nhau…
Nếu tôi vẫn ở lại làng, nếu tôi lấy chồng và sinh toàn con gái, một ngày nào đó Assad được giao nhiệm vụ siết cổ một trong những đứa con gái của tôi, có lẽ tôi cũng sẽ làm như những người phụ nữ khác, tôi sẽ cam chịu mà không hề phản kháng. Ở đây, nghĩ và nói như thế là chuyện không thể chấp nhận được, nhưng ở làng tôi là như vậy.
Giờ đây mọi chuyện đã khác bởi đối với làng tôi, tôi đã chết, và bởi vì tôi được sinh ra lần thứ hai trên đất châu Âu. Vì thế trong tâm trí tôi có những ý nghĩ khác xuất hiện.
Nhưng tôi vẫn thương yêu em trai tôi. Tình cảm đó như thể rễ cây ôliu, không sao nhổ đi được, ngay cả khi cây đã bị đổ.
PHẦN 4: QUẢ CÀ CHUA XANH
Sáng nào tôi cũng quét dọn chuồng gia súc, chuồng rất rộng và nồng nặc mùi hôi. Sau khi cọ rửa sạch sẽ, tôi sẽ để cửa chuồng mở cho thoáng. Chỗ nào trong chuồng cũng ẩm ướt cộng với sức nóng của mặt trời nên hơi nước ngập đầy bên trong. Phân chuồng được xúc vào xô và tôi đội lên đầu để mang ra vườn phơi khô. Một phần của đống phân chuồng ấy là phân ngựa được dùng riêng để bón đất trong vườn. Cha tôi bảo đó là thứ phân bón tốt nhất. Phân cừu thì dành để đun trong lò nướng bánh mì. Khi phân thật khô, tôi ngồi bệt xuống đất và tôi dùng tay để nặn chúng thành những bánh nhỏ rồi chất thành đống để đun dần.
Cừu được lùa ra đồng ăn cỏ từ sáng sớm. Khoảng mười một giờ trưa, khi mặt trời lên cao và nắng nóng thì ra đồng đưa cừu về chuồng. Đàn cừu ăn và ngủ. Tôi cũng vào nhà để ăn trưa. Một ít dầu trong bát, bánh mì nóng, chè, ôliu và hoa quả. Buổi tối có thịt gà, thịt cừu non hoặc thịt thỏ. Hầu như ngày nào chúng tôi cũng ăn thịt với cơm, với bột nhào do tự chế biến. Rau củ đều được hái từ vườn nhà.
Khi trời quá nóng thì tôi quay sang lo việc nhà. Tôi nhào bột để làm bánh mì. Tôi cho bọn cừu con ăn. Tôi nắm lấy mảng da ở cổ chúng như nắm những con mèo, rồi giơ chúng lên ngang với đầu ti của cừu mẹ để cho chúng bú. Lúc nào cũng có nhiều cừu non nên tôi lần lượt cho từng con bú. Con nào đã bú no, tôi trả nó về chỗ cũ và mang một con khác đến cho tới khi cả đàn bú xong. Sau đó tôi chăm đến đàn dê được nhốt riêng ở một góc chuồng. Hai con ngựa được nhốt riêng và bốn con bò cái cũng vậy. Chuồng gia súc quả thực rất rộng: có khoảng sáu mươi con cừu và ít nhất bốn mươi con dê. Đàn ngựa luôn được thả ngoài bãi cỏ, đến tối mới dắt về chuồng. Ngựa chỉ để cho em trai tôi và cha tôi cưỡi đi dạo, chúng tôi không bao giờ được động tới. Khi hoàn tất công việc trong chuồng gia súc, tôi về nhà mà vẫn để ngỏ cửa chuồng vì trời rất nóng, vả lại đã có hàng rào chắn bằng gỗ, thứ gỗ rất nặng và dày ngăn không cho những con vật xổng ra ngoài.
Sau đó tôi phải ra vườn khi mặt trời xuống thấp. Hầu như ngày nào cũng có nhiều cà chua chín cần phải hái. Có lần, do nhầm lẫn tôi hái một quả cà chua còn xanh. Tôi vẫn không quên quả cà chua xanh ấy! Ngồi trong nhà bếp tôi vẫn thường nghĩ đến nó. Nó nửa vàng nửa đỏ, chỉ mới chín ương. Khi về nhà, tôi đã nghĩ đến việc giấu nó đi nhưng không kịp vì cha tôi cũng đã về đến nhà. Tôi biết là không nên hái nó nhưng khi đó vì mải hái nhanh nên tôi không ngừng được. Vốn phải nhanh chóng làm việc trong nhà thành ra những cử chỉ của tôi trở nên máy móc, những ngón tay của tôi cứ xoay thoăn thoắt quanh những trái cà chua, sang phải, sang trái, rồi sang phải, sang trái, từ ngọn xuống gốc…và quả cà chua cuối cùng, quả cà chua ít được ánh nắng chiếu đến nhất, bỗng dưng nằm gọn trong tay tôi, ngoài ý muốn của tôi. Và nó nằm đó, rất dễ nhận thấy trong cái chậu. Cha tôi hét lên: “Mày điên đấy à? Mày xem mày đã làm cái gì kia? Quả cà chua còn xanh như thế mà mày lại hái! Đồ thối thây!”
Và ông đánh tôi rồi cầm quả cà chua bóp mạnh đến nát bét trên đầu tôi. Hạt và nước cà chua chảy ròng ròng trên người tôi. “Bây giờ thì ăn đi! Ăn đi!” Ông ấn quả cà chua vào mồm tôi, bôi những thứ còn lại lên mặt tôi. Tôi cứ tưởng quả cà này mặc dù còn xanh nhưng vẫn có thể ăn được, nhưng nó đắng chát đến phát lợm. Do bị ép nên tôi phải nuốt. Sau đó tôi không còn muốn ăn gì nữa, tôi khóc mãi, và thấy dạ dày mình cuộn lên. Nhưng cha tôi còn dúi đầu tôi xuống chiếc đĩa và bắt tôi phải ăn, gần như một con chó. Tôi không cựa quậy được, đầu tôi đau nhói vì ông xoắn nghiến tóc tôi. Con bé con bà vợ thứ hai của của cha tôi bật cười chế nhạo tôi. Cha tôi vung tay tát nó mạnh đến nỗi những thứ con bé đang nhai trong miệng văng hết ra ngoài và nó bật khóc. Tôi càng kêu van đau đớn, ông lại càng ra sức dúi mặt tôi vào sâu trong đống bột. Ông còn lấy bột vo lại thành từng viên nhét vào mồm tôi cho đến lúc chiếc dĩa sạch nhẵn không còn chút bột nào mới thôi, ông đã nổi điên. Sau đó ông lấy khăn lau tay, ném cái khăn đó lên đầu tôi rồi thản nhiên đi ra hàng hiên ngồi dưới bóng râm.
Tôi vừa thu dọn khay đĩa vừa khóc. Mặt tôi, tóc tôi , mắt tôi dính đầy thức ăn. Và như thường lệ, tôi lấy chổi quét dọn từng miếng bột vụn cha tôi đánh rơi dưới đất.
Trong suốt một thời gian dài, tôi đã quên nhiều sự kiện quan trọng, như việc em gái tôi mất tích chẳng hạn, nhưng không bao giờ tôi quên câu chuyện quả cà chua xanh và nỗi nhục bị đối xử tệ hơn một con chó. Và tệ nhất là cảnh cha tôi, sau khi cho tôi một trận đòn nên thân mà hầu như ngày nào tôi cũng phải nhận, thản nhiên ra hàng hiên dưới bóng râm ngủ trưa như một ông vua. Ông là biểu tượng của chế độ nô lệ mà tôi phải cúi đầu chấp nhận, và tôi phải đưa lưng hứng chịu những trận đòn roi như mẹ tôi, như chị em tôi. Nhưng bây giờ thì tôi đã hiểu tại sao tôi căm ghét cha tôi. Tôi chỉ mong chiếc khăn choàng phu–la ông đang quàng thít chặt cổ khiến cho ông chết ngạt.
Đó là cuộc sống thường nhật. Khoảng bốn giờ sáng chúng tôi lùa cừu và dê ra đồng ăn cỏ cho đến khi mặt trời lặn. Chị tôi đi trước dẫn đường và bao giờ tôi cũng đi đằng sau với cây gậy trong tay để thúc đàn gia súc tiến lên phía trước, và nhất là đe nẹt mấy con dê. Chúng lúc nào cũng quậy phá, chỉ chực chạy quáng quàng. Khi đã ra đến đồng cỏ rồi thì được yên tĩnh một chút, ở đây chỉ có chúng tôi và đàn gia súc. Tôi lấy một quả dưa hấu rồi đập lên hòn đá cho nó nứt toác ra. Khi về nhà, chúng tôi chỉ sợ có ai biết vì áo bị loang lổ do nước dưa bắn lên. Chúng tôi đi thẳng vào chuồng cừu, mặc nguyên áo trên người, chỉ té nước lên gột cho sạch, trước khi cha mẹ kịp nhìn thấy. Không có chuyện cởi áo ra, nhưng cũng may là áo khô rất nhanh.
Mặt trời ngả sang một màu vàng kỳ lạ và tiến xa về hướng chân trời. Bầu trời chuyển từ xanh sang xám, cần phải về trước khi màn đêm buông xuống. Ở quê tôi, trời thường tối rất nhanh nên làm việc gì cũng phải nhanh như mặt trời, đếm từng bước đi trên đường, men theo bờ tường và một lần nữa cánh cửa sắt đóng sập lại ngay sau lưng.
Lùa gia súc vào chuồng xong cũng là lúc vắt sữa bò và cừu. Tôi còn nhớ là tay tôi mỏi nhừ. Một cái bình đựng sữa to đặt ngay dưới bụng con bò, một chiếc ghế đẩu thấp lè tè, tôi nắm một chân con bò kẹp chặt vào giữa hai chân tôi để nó không núc nhích và cũng để tia sữa không phun ra chỗ khác mà phun thẳng vào cái xô. Nếu để sữa chảy thành vũng dưới đất hoặc chỉ rơi vài giọt thôi là không sống nổi với cha tôi!… Ông sẽ vừa tát liên hồi vừa hét ầm lên rằng tôi vừa để mất của ông một miếng pho mát! Bầu vú con bò nào cũng rất to và cứng vì căng sữa, còn tay tôi thì bé quá. Hai cánh tay tôi mỏi nhừ, phải mất rất nhiều thời gian tôi mới vắt sữa xong, và tôi kiệt sức. Có lần, hồi ấy trong chuồng có khoảng sáu con bò, tôi vừa vắt sữa vừa ngủ gật. Tôi gục đầu vào cái xô, hai chân kẹp lấy chân con bò. Không may cho tôi là cha tôi đi vào và ông hét lên: “Charmuta! Con đĩ!” Nói rồi ông túm tóc tôi lôi xềnh xệch trong chuồng và tôi bị một trận đòn tối tăm mặt mũi bằng chiếc thắt lưng da. Tôi vẫn còn nguyền rủa chiếc thắt lưng da to bản ấy, chiếc thắt lưng da mà cha tôi thường đeo với một chiếc khác bé hơn. Chiếc thắt lưng bé ấy quất xuống rất mạnh. Ông cầm chặt một đầu và thẳng tay vung xuống. Khi dùng chiếc thắt lưng to, ông phải gấp đôi nó lại và nó rất nặng. Tôi vừa khóc vừa van lạy nhưng tôi càng kêu đau bao nhiêu thì ông càng đánh mạnh bấy nhiêu và mắng tôi là đồ đĩ.
Tối đến, trong bữa ăn, tôi vẫn còn khóc. Mẹ tôi gạn hỏi lý do. Bà thấy rõ là tối đó cha tôi rất mạnh tay, nhưng bà cũng bị ông đánh luôn. Vừa đánh ông vừa bảo mẹ tôi là chuyện này không dính dáng gì đến bà, và bà không cần phải biết lý do vì đã có tôi biết thay cho bà.
Trong nhà tôi, một ngày bình thường là một ngày ít nhất tôi cũng bị một cái tát hoặc một cú đá vì tội làm ăn chậm chạp, về tội nước pha chè không chịu sôi nhanh…Thỉnh thoảng tôi cũng tránh được một cái cốc đầu, nhưng không thường xuyên. Tôi không nhớ chị Kainat có bị đánh nhiều như tôi không nhưng chắc là có vì chị cũng có vẻ sợ hãi như tôi. Tôi vẫn giữ thói quen làm việc nhanh, bước đi thật nhanh như thể lúc nào cũng có một chiếc thắt lưng da thường xuyên rình rập. Con lừa chỉ cất bứơc khi bị gậy đập vào lưng. Nếu gậy ngừng đập, nó cũng ngừng đi. Giống hệt chúng tôi, chỉ khác là cha tôi đánh chúng tôi mạnh hơn đánh con lừa. Và sáng hôm sau, theo nguyên tắc, tôi bị đánh thêm mấy roi cốt để tôi đừng quên trận đòn thích đáng hôm qua. Cốt để tôi bước tiếp mà không ngủ gật giống như con lừa trên đường.
Chuyện về con lừa nhắc tôi đến một kỉ niệm khác liên quan đến mẹ tôi. Hôm ấy như thường lệ, tôi lùa đàn cừu ra đồng cỏ rồi quay về nhà thật nhanh để quét dọn chuồng trại. Mẹ tôi đi cùng tôi, bà giục tôi nhanh tay lên vì chúng tôi còn phải đi nhặt quả vả. Phải buộc các thùng gỗ lên lưng lừa và đi ra khỏi làng khá xa. Tôi không xác định được thời gian diễn ra chuyện này, chỉ nhớ buổi sáng hôm ấy hình như cũng gần với vụ cà chua xanh. Đó là lúc cuối mùa vì cây vả chỗ chúng tôi dừng chân đã trụi hết lá. Tôi buộc con lừa vào thân cây vả để ngăn không cho nó ăn quả và lá vả rụng đầy trên mặt đất.
Tôi bắt đầu nhặt và mẹ tôi bảo tôi: “Này Souad nghe tao bảo. Mày ở lại đây với con lừa và nhặt những quả vả rụng bên đường, nhưng không được đi ra xa, cứ ở quanh cái cây này thôi. Không được đi đâu cả. Nếu trông thấy cha mày cưỡi con ngựa bạch hoặc trông thấy thằng Assad hoặc bất cứ ai khác thì huýt sáo một tiếng, tao sẽ quay lại ngay.” Dặn xong, bà men theo con đường, đi một đoạn khá xa tới chỗ người đàn ông cưỡi ngựa đang đứng đợi. Người này tôi đã nhìn thấy mấy lần nên biết, hắn tên là Fadel. Đầu tròn, dáng người nhỏ bé nhưng khá khoẻ mạnh. Con ngựa của hắn được chăm sóc khá kỹ lưỡng, có bộ lông trắng và một đốm đen, đuôi được tết lại đến tận phía dưới trông như cái bím. Tôi không biết hắn ta có vợ hay chưa.
Mẹ tôi và hắn làm cái việc phản bội bố tôi. Thoạt nghe bà dặn tôi đã hiểu ra ngay. “Nếu trông thấy ai đến thì huýt sáo ra hiệu cho tao biết.” Người đàn ông cưỡi ngựa biến mất khỏi tầm nhìn của tôi, mẹ tôi cũng biến mất theo. Còn tôi, chỉ chú tâm nhặt những quả vả bên vệ đường. Ở chỗ ấy chẳng nhặt được bao nhiêu nhưng tôi không được đi xa hơn. Nếu đi ra xa, nhỡ cha tôi hoặc người nào đó đến thì tôi sẽ không nhìn thấy được.
Cũng thật lạ lùng tôi không hế ngạc nhiên vì chuyện này. Theo những kỉ niệm của tôi thì lúc bấy giờ tôi không cảm thấy lo sợ gì nhiều. Có lẽ vì mẹ tôi đã lên kế hoạch rất chu đáo. Con lừa bị buộc vào cây vả trụi lá, nó không thể ăn được bất cứ thứ gì. Với lối nhặt hái này thì buộc phải làm như thế. Tôi không cần phải canh chừng như trong chính vụ và có thể làm mọi việc của mình. Tôi đi về phía này mười bước, đi về phía kia mười bước, vừa đi vừa nhặt những quả vả rơi dưới đất và bỏ vào thùng. Từ chỗ đang đứng, tôi có thể bao quát cả đoạn đường dẫn về phía làng, nếu có ai đến, tôi có thể trông thấy từ xa và huýt sáo kịp lúc. Tôi không nhìn thấy Fadel hoặc mẹ tôi nhưng tôi đoán là họ chỉ ở cách đây quãng năm mười bước chân, đang nấp đâu đấy ngoài đồng. Như thế nếu có chuyện cấp bách xảy ra bà vẫn có thể nói là mình chỉ vắng mặt chốc lát để giải quyết nhu cầu cấp bách. Không một người đàn ông nào, kể cả cha tôi hay em trai tôi lại sỗ sàng tra hỏi về chuyện ấy. Làm như thế thật đáng hổ thẹn.
Tôi cũng không phải ở một mình lâu, thùng vả chỉ mới hơi đầy thì hai người đã trở về theo hai lối riêng rẽ. Mẹ tôi từ cánh đồng bước ra. Tôi trông thấy Fadel lên ngựa, lần thứ nhất hắn không với tới yên vì con ngựa cao quá. Hắn ta có chiếc roi ngựa bằng gỗ rất đẹp, rất mảnh. Trước khi đi, hắn ta còn cười với mẹ tôi.
Tôi vờ như không thấy gì.
Chuyện ấy diễn ra thật nhanh. Hai người làm tình với nhau ở một chỗ nào đấy trên cánh đồng, sau các bụi cỏ hoặc ngổi cạnh nhau để chuyện suông, tôi cũng không muốn biết. Tôi không có quyền hỏi về những chuyện họ đã làm hay làm ra vẻ ngạc nhiên, chuyện đó không liên quan đến tôi. Mẹ tôi không bao giờ tâm sự với tôi về những chuyện thầm kín của bà. Bà cũng biết là tôi sẽ không nói chuyện này với ai, vì một lẽ đơn giản, tôi là tòng phạm và tôi sẽ bị đánh cho đến chết như bà. Cha tôi chỉ biết đánh đập những người đàn bà trong nhà, bắt họ phải làm lụng mang tiền về cho mình. Như thế việc mẹ tôi lấy cớ đi nhặt những quả vả đổ đầy thùng gỗ mang về cho ông để đi lăng nhăng với người đàn ông khác, rốt cuộc lại khiến tôi rất hài lòng. Mẹ tôi có lý.
Bây giờ chúng tôi sẽ phải nhặt thật nhanh để thùng vả được đầy tương xứng với thời gian đã trôi qua. Nếu không cha tôi sẽ hỏi: “Sao mang về toàn những thùng rỗng thế này, mày đã làm gì suốt thời gian ấy?” Và tôi sẽ được nếm mùi đau đớn từ chiếc thắt lưng da.
Từ chỗ nhặt vả về đến làng khá xa. Mẹ tôi ngồi trên lưng con lừa, hai chân hơi giạng ra quanh cổ con vật, thật sát vào đầu nó để những quả vả không bị giập, tôi đi lên trước dẫn đường cho con lừa và chúng tôi quay về với những thùng vả vừa đầy vừa nặng.
Đi được một đoạn, chúng tôi gặp một người đàn bà có tuổi đi một mình với con lừa cũng chở những thùng vả về nhà như chúng tôi. Bà ta già rồi nên không cần có người đi kèm. Bà ta đang đi trước chúng tôi. Mẹ tôi gật đầu chào và cả ba chúng tôi cùng tiếp tục cắm cúi bước trên đường. Con đường này rất hẹp và kinh khủng. Đầy chỗ lồi lõm và nhấp nhô toàn đá. Có nhiều đoạn dốc cao làm con lừa tải nặng phải ì ạch mãi mới mới tiến lên được. Đi được một đoạn, nó dừng khựng lại trên đỉnh dốc, trước một con rắn to và nhất định không chịu đi tiếp. Mẹ tôi hết đánh đến dỗ dành nhưng nó nhất mực không nghe. Đã thế nó còn bước thụt lùi, cánh mũi phập phồng vì sợ, giống hệt tôi. Tôi cũng ghét rắn. Đoạn dốc quả tình rất cao, những thùng vả trên lưng lừa chỉ chực đổ ụp xuống. Cũng may bà cụ đồng hành cùng chúng tôi có vẻ không sợ con rắn này, mặc dù nó rất to. Tôi không biết bà ta đã làm thế nào, chỉ thấy thân hình con rắn co lại, giãy giụa. Có lẽ bà ta đập bằng gậy… Cuối cùng, con rắn lách mình chui xuống khe núi và con lừa khi đó mới nhấc chân đi tiếp.
Quanh làng tôi có rất nhiều rắn, rắn bé, rắn to đủ cả. Ngày nào chúng tôi cũng trông thấy rắn và sợ chúng như sợ những quả mìn. Từ khi xảy ra chiến tranh với người Do Thái, khắp nơi đều có mìn. Ngay trong làng, người ta không sao biết được mình có thể chết lúc nào nếu tình cờ đạp trúng mìn. Dù sao chăng nữa, chuyện này tôi cũng đã nghe mọi người bàn tán ở nhà, dạo ông nội tôi hoặc chú tôi đến thăm. Mẹ dặn chúng tôi phải hết sức chú ý để tránh những quả mìn ấy, chúng nằm lẫn trong đá sỏi nên rất khó nhận biết và lúc nào tôi cũng nhìn về phía trước, chỉ sợ dẫm phải chúng. Tôi không nhớ mình đã nhìn thấy quả mìn hay chưa, nhưng tôi biết mối nguy hiểm vẫn luôn thường trực. Tốt nhất là không nên nhấc những hòn đá lên và trước khi bước thì phải nhìn thật kỹ. Còn lũ rắn thì chui vào tận trong nhà, trong kho chứa thóc mà làm tổ, giữa những bao gạo hay đống rơm trong chuồng gia súc.
Khi mẹ và tôi về đến nhà thì cha tôi vẫn chưa về. Thực nhẹ cả người vì lúc ấy đã mười giờ và chúng tôi về quá muộn. Vào giờ đó, mặt trời đã lên cao, hơi nóng hầm hập và những quả chín có thể héo quắt lại và mềm nhũn. Như thế là không được, quả vả phải tươi và phải được sửa soạn cẩn thận để cha tôi có thể mang ra chợ.
Tối rất thích công việc xếp vả vào thùng. Tôi chọn những chiếc lá vả đẹp nhất, thật to và thật xanh để lót dưới đáy thùng. Sau đó tôi nhẹ nhàng xếp quả vả vào, xếp thật ngay ngắn như xếp những món trang sức quý giá, giá, và lấy những chiếc lá to đậy lên để che ánh mặt trời. Với nho thì cũng làm như thế, lấy kéo cắt thành từng chùm, rửa thật kỹ, không để sót một quả giập hay một chiếc lá bẩn nào. Đáy thùng được lót bằng lá nho, phía trên cùng cũng đậy bằng lá nho, để nho luôn được tươi.
Rồi đến mùa thu hoạch súp lơ, bí đao, cà tím, cà chua và bí rợ. Cha tôi cũng bán cả những miếng pho mát do chính ta tôi làm ra. Tôi cho sữa vào một cái xô to bằng kim loại. Tôi vớt lớp mỡ béo vàng ngậy bám quanh mép xô và cả lớp kem sữa để riêng ra làm món “laban” rồi đánh thành từng gói riêng bán trong dịp lễ Ramadan. Những thứ ấy được đựng trong các xô to và cho tôi dùng nhựa cứng để đóng gói sao cho sản phẩm làm ra không bị ôi thiu. Trên mỗi gói, ông ghi “laban” bằng chữ Ả Rập.
Với sữa, tiếng Ả Rập gọi là “halib”, tôi làm sữa chua và pho mát theo lối thủ công. Tôi có một tấm vải thưa màu trắng và một cái bát sắt. Trước tiên tôi múc sữa đầy miệng bát sao cho miếng pho mát nào cũng cùng một kích cỡ, sau đó tôi cho sữa vào tấm vải, buộc nút thật chặt cho nước sữa chảy vào xô. Khi những miếng pho mát đã ráo nước, tôi xếp chúng lên một cái khay to mạ vàng, rồi lấy vải đậy lên trên để ánh mặt trời và đàn ruồi không làm hỏng. Sau đó tôi cho miếng pho mát vào cái hộp trắng mà cha tôi đã ghi chữ pho mát bằng tiếng Ả Rập trên đó. Một khi đã được đóng gói, những miếng pho mát đều chằn chặn nom rất bắt mắt. Vào chính vụ, hầu như ngày nào cha tôi cũng mang hoa quả và rau củ ra chợ bán. Riêng pho mát và sữa, mỗi tuần chỉ đi bán hai ngày.
Chờ cho mọi người chất hàng lên xe xong xuôi thì cha tôi mới ngồi vào chỗ tay lái chiếc xe tải nhỏ, nếu không kịp chất hàng lên xe thì chết với cha tôi. Ông ngồi ở phía trước với mẹ tôi, còn tôi ngồi phía sau, bị chèn cứng giữa các thùng hàng. Mất khoảng nửa giờ đi xe. Khi đến nơi, tôi trông thấy nhiều tòa nhà lớn. Đó là thành phố, một thành phố xinh đẹp và rất sạch. Có nhiều đèn đỏ để xe cộ phải dừng lại. Những cửa hàng đẹp đẽ. Tôi nhớ đã trông thấy một tủ kính bầy hàng với một manocanh mặc váy cô dâu. Nhưng tôi không được phép đi dạo và càng không được phép đi xem các cửa hàng. Miệng tôi cứ há hốc và cổ tôi muốn vẹo đi khi phải ngoảnh đầu lại để được nhìn thật lâu các cửa hàng đó từ xa. Chưa bao giờ tôi được trông thấy những thứ như thế.
Tôi cũng rất thích đi thăm các nơi trong thành phố ấy, nhưng đến lúc tôi nhìn thấy những đứa con gái đi trên hè phố, mặc váy ngắn để lộ cẳng chân thì tôi lại đâm ra xấu hổ. Giá được gặp chúng thật gần, có lẽ tôi đã nhổ vào mặt chúng khi chúng đi qua. Đúng là bọn charmuta… Đối với tôi, chúng thực là đáng tởm. Chúng đi một mình, không có bố mẹ bên cạnh. Tôi tự nhủ thầm rằng những đứa như thế sẽ không bao giờ lấy được chồng. Sẽ chẳng có một người đàn ông nào chịu hỏi chúng làm vợ vì chúng đã phô bày cả hai chân ra và đã trang điểm, tô môi đỏ chót. Và tôi không hiểu tại sao người ta lại không nhốt chúng lại.
Giờ tôi mới nhận ra rằng nếp sống ở làng tôi đã không hề thay đổi kể từ thời mẹ tôi được sinh ra, từ thời bà tôi và xa xưa hơn nữa. Liệu những đứa con gái này có bị đánh đập như tôi không? Họ có phải làm lụng quần quật như tôi không? Có bị giam cầm trong nhà như tôi không? Có bị xem là nô lệ như tôi không? Tôi không được phép rời xa chiếc xe tải của cha tôi nửa bước. Ông trông coi việc dỡ hàng xuống và thu tiền về. Còn tôi, khi thấy ông đưa tay ra hiệu thì tôi phải trèo ngay lên xe, chui vào tận bên trong, ngoan ngoãn như một con lừa, với một thú vui ngắn ngủi và độc nhất là được ngồi rỗi một lúc và nhìn qua khe những thùng trái cây và rau củ cảnh nhột nhịp của những cửa hàng mà tôi biết mình không được đến.
Khu chợ rất to. Nho leo trên giàn tạo thành một dạng mái che nên trái cây bày bán bên dưới lúc này cũng ở trong bóng râm. Chúng rất đẹp. Khi đã bán hết hàng, cha tôi vui lắm. Ông một mình đến gặp người bán hàng trước khi chợ đóng cửa và mang tiền về. Tôi trông thấy ông cầm tiền trên tay. Ông đếm đi đếm lại rồi cất vào một cái túi nhỏ bằng vải có dây buộc đeo vào cổ. Cha đã sắm sửa những tiện nghi hiện đại cho ngôi nhà nhờ vào tiền bán hàng ấy.
Tôi thích được trèo lên chiếc xe tải vì đấy là những khoảnh khắc tôi được nghỉ ngơi. Suốt thời gian xe chạy, tôi không phải làm gì, chỉ thảnh thơi ngồi yên. Nhưng khi vào đến chợ thì tôi phải luôn chân luôn tay, chuyển các thùng hàng thật nhanh. Cha tôi muốn cho mọi người thấy vợ ông và con gái ông luôn làm việc cật lực. Lúc nào tôi cũng cùng làm với mẹ tôi. Cha tôi không bao giờ dẫn theo cùng lúc hai đứa con gái ra chợ.
Những hôm chị tôi ra chợ cùng cha mẹ, tôi ở nhà lấy nước rửa sân và cứ để đó cho nắng làm khô. Tôi sửa soạn các món ăn và làm bánh mì. Tôi ngồi bệt xuống đất, dốc bột ra khay to, đổ thêm nước và muối rồi nhồi bằng tay. Sau đó tôi lấy tấm vải trắng phủ lên khối bột rồi chờ nó nở ra. Tôi đi khơi lại lò nướng bánh cho nó nóng đều. Chỗ dành riêng để làm bánh mì rộng như một gian nhà nhỏ có nóc bằng gỗ và bên trong là một chiếc lò nướng bánh có lửa cháy âm ỉ suốt ngày. Than cháy dở có thể giữ được rất lâu nhưng trước khi nướng bánh phải khơi lên cho thật nóng.
Không gì đẹp bằng một khối bột đang nở ra…. Tôi rất thích làm bánh mì. Tôi khoét một lỗ tròn trên tảng bột để trông cho đẹp trước khi cho bột vào lò. Và để không bị dính vào tay, tôi thọc hai bàn tay vào bao đựng bột rồi vuốt lên tảng bột nhồi làm cho nó trở nên vừa trắng vừa mềm mại. Như thế là có một cái bánh to, tuyệt đẹp, một cái bánh tròn trĩnh, xinh xắn, và trong cùng một khay thì cái nào cũng phải giống cái nào. Nếu không tôi sẽ bị cha tôi cầm cả khay bánh ném vào mặt.
Khi bánh chín, tôi quét lò và dọn sạch tro. Khi từ trong đó đi ra, mái tóc, khuôn mặt, lông mày, lông mi của tôi đều xám vì bụi. Tôi phải lắc lắc giũ bụi như một con chó có rận.
Một hôm tôi đang ở trong nhà thì thấy có khói bốc lên từ nóc nhà gỗ của gian nhà làm bánh. Tôi cùng chị tôi chạy ra xem và chúng tôi bắt đầu kêu lên có cháy. Cha tôi cũng chạy lại và xách theo xô nước. Lửa bốc phừng phừng và mọi thứ đều cháy sạch. Bên trong lò bánh có những cục đen xì giống như cục cứt dê. Thì ra tôi đã quên một cái bánh trong lò và không quét sạch tro than. Một hòn than cháy đượm còn sót lại đã gây ra đám cháy. Đó là lỗi của tôi. Lẽ ra tôi không được để sót bánh trong lò như thế và nhất là không nên quên lấy một thanh củi cào kỹ đống tro để gạt bỏ những hòn than còn đượm.
Tôi là thủ phạm gây ra trận hoả hoạn. Đó thực là thảm hoạ tồi tệ nhất.
Và cha tôi đã cho tôi một trận đòn khủng khiếp hơn bao giờ hết. Tôi bị ông đá và dùng gậy đập vào lưng. Ông nắm tóc tôi, ghì mạnh làm tôi khuỵu gối rồi dí mặt tôi vào đống tro, cũng may là chúng chỉ còn ấm. Tôi ngạt thở, bọt mép tôi sùi ra, tro chui vào đầy mũi và miệng, hai mắt tôi đỏ quạch. Ông bắt tôi phải ăn tro để trừng phạt tôi. Khi được ông buông ra, tôi khóc nức nở. Tóc tôi, mặt tôi, nửa đen nửa xám với hai con mắt đỏ như quả cà chua. Đây là một lỗi rất nặng do tôi gây ra, nếu không có chị tôi và mẹ tôi đứng đấy thì có lẽ cha tôi đã ném tôi vào lửa trước khi dập tắt đám cháy.
Cần phải mua gạch xây lại chiếc lò và công việc rất mất thời gian. Hằng ngày, tôi được nghe những lời chửi bới, những câu chì chiết cay độc. Tôi khom lưng chạy thẳng xuống chuồng gia súc, tôi cắm mặt quét dọn sân, không dám nhìn lên. Tôi nghĩ cha tôi ghét bỏ tôi thật sự, mặc dù ngoài cái lỗi ấy tôi luôn làm lụng chăm chỉ.
Buổi xế chiều, trước khi màn đêm xuống là thời gian dành cho việc giặt dũ. Tôi giặt tất cả đồ khăn vải trong nhà, tôi mang những tấm da cừu ra đập bụi, tôi quét dọn, nấu nướng, cho gia súc ăn, cọ rửa chuồng trại. Rất hiếm khi tôi được nghỉ ngơi.
Buổi tối bọn con gái chúng tôi không bao giờ được ra ngoài. Cha mẹ tôi thường xuyên ra ngoài, họ đi thăm hàng xóm, đến chơi nhà bạn bè. Em trai tôi cũng rất hay đi, nhưng chúng tôi thì không bao giờ. Chúng tôi không có bạn, chị cả tôi không bao giờ về thăm chúng tôi. Người lạ duy nhất mà thỉnh thoảng tôi gặp là bà hàng xóm Enam. Bà có một cái đốm trong tròng mắt, dân làng chế nhạo bà và mọi người đều biết rằng bà chẳng bao giờ lấy được chồng.
Từ trên sân thượng, tôi nhìn thấy ngôi biệt thự của bọn nhà giàu. Họ ngồi trên sân thượng bật đèn sáng choang, tôi nghe tiếng họ cười và trông thấy họ ăn uống ngoài trời, cả vào ban đêm. Còn chúng tôi thì bị nhốt chặt trong phòng như đàn thỏ bị nhốt trong chuồng. Trong làng tôi, tôi chỉ nhớ mỗi gia đình giàu có ấy, nhà họ nằm cách nhà tôi không xa, và nà Enam, một gái già cô độc thường ngồi một mình ngay trước cửa nhà. Thú tiêu khiển duy nhất của tôi là những chuyến đi trên chiếc xe tải nhỏ để ra chợ bán hàng.
Thời gian nghỉ ngơi quá hiếm hoi…Những lúc không làm công việc trong nhà thì chúng tôi lại giúp những người khác trong làng. Và họ cũng thế, cứ rảnh rỗi lại đến phụ giúp chúng tôi.
Làng chúng tôi có rất nhiều con gái suýt soát tuổi nhau và người ta thường dùng ôtô chở chúng tôi đi thu hoạch súp lơ ở một cánh đồng rộng. Tôi còn nhớ cánh đồng súp lơ ấy! Nó rộng đến mức chẳng nhìn thấy bờ bên kia và người ta có cảm tưởng không bao giờ thu hoạch được hết số súp lơ ở đấy! Ông tài xế thấp bé đến nỗi phải kê thêm một cái gối trên chỗ ngồi mới lái được xe. Đầu ông ta tròn, bé xíu, trông rất buồn cười, tóc thì húi cua cụt lủn.
Chúng tôi hái súp lơ cả ngày. Tất cả đám con gái đều lăn lê bò toài trên mặt đất và xếp thành hàng như thường lệ, dưới sự giám sát của một người đàn bà có tuổi, tay lăm lăm cây gậy. Chớ có tính đến chuyện lề mề! Súp lơ được chất lên một chiếc xe tải lớn. Ngày làm việc kết thúc, người ta để chiếc xe tải lại đó và chúng tôi lên ôtô về làng. Dọc hai bên đường có rất nhiều cam. Vì chúng tôi khát nước nên tài xế cho xe đỗ lại và bảo chúng tôi mỗi đứa hái một quả cam rồi quay lại ngay.
“Một quả và halas!” Câu đó có nghĩa là “chỉ một quả thôi, không được hai quả đâu đấy.”
Tất cả bọn con gái chạy nhanh về chỗ xe đỗ rồi leo lên xe. Đó là đoạn đường hẹp nên tài xế cho xe chạy lùi. Bỗng nhiên ông ta đột ngột tắt máy, nhảy xuống đất và kêu to đến nỗi tất cả bọn con gái đều nhốn nháo trèo ra khỏi xe.
Ông ta đã đâm phải một đứa con gái, Đầu của con bé bị bánh xe cán lên. Lúc đó tôi đang đứng ngay phía trước, tôi cúi xuống nắm lấy mớ tóc nó kéo lên, đinh ninh là con bé vẫn sống. nhưng cái đầu nó vẫn dính chặt dưới đất và tôi kinh hãi ngất đi.
Sau đó, tôi nhớ là tôi lại được đưa lên ôtô và nằm tựa lên đầu gối bà đã trông coi chúng tôi hái súp lơ. Ông tài xế dừng xe trước cửa từng nhà một để bọn con gái bước xuống. Vì chúng tôi không được phép về nhà một mình, ngay cả khi chúng tôi đã về đến làng. Khi tôi bước xuống cửa nhà mình, bà kia nói với mẹ tôi là tôi đang ốm. Tối hôm ấy mẹ tỏ ra rất dịu dàng với tôi vì bà kia đã kể cho mẹ nghe mọi chuyện. Bà ta buộc phải thuật lại cho các bà mẹ có con gái đi làm việc ngày hôm ấy về vụ tai nạn và ông tài xế phải đỗ xe chờ bên ngoài. Có lẽ để cho tất cả mọi người đều trả lời giống nhau?
Thật lạ là tai nạn xảy đến với đúng con bé ấy. Khi bẻ súp lơ lúc nào nó cũng đứng ở giữa hàng, không bao giờ ở đầu hoặc cuối hàng. Cũng nên biết ở xứ tôi, nếu một đứa con gái mà được những đứa khác quây chặt như thế có nghĩa là đứa con gái ấy đang có ý định bỏ trốn. Và tôi nhận thấy rằng con bé ấy lúc nào cũng bị những đứa khác vây quanh và bị giữ chặt, không được đổi chỗ trong hàng. Đối với tôi, đó là chuyện lạ lùng, nhất là không thấy có ai nói chuyện với nó. Thậm chí chúng tôi không được nhìn nó vì nó là charmuta. Nếu nói chuyện với nó chúng tôi cũng bị coi là charmuta như nó. Có phải ông tài xế đã cố ý cho xe đâm chết nó không? Trong làng, những lời bàn tán rộ lên trong suốt một thời gian dài. Cảnh sát đã đến hỏi chúng tôi, họ tập họp tất cả chúng tôi tới chỗ cánh đồng xảy ra tai nạn. Có ba cảnh sát và đối với chúng tôi, việc được nhìn thấy người đàn ông trong bộ đồng phục cảnh sát là một chuyện vô cùng lớn lao. Chúng tôi không dám nhìn thẳng vào mắt họ, chỉ biết tỏ ra kính cẩn, rụt rè và chỉ cho họ thấy nơi sự việc diễn ra. Tôi cúi xuống. Ở đây đã đặt sẵn một cái đầu giả. Tôi đưa tay nhấc lên. Họ bảo tôi: “Halas, halas, halas…” và cuộc điều tra kết thúc.
Chúng tôi trèo lên ôtô. Ông tài xế khóc. Ông ta lái xe thật nhanh và không bình tĩnh như mọi khi. Chiếc xe nhảy chồm trên đường và tôi còn nhớ bà trông coi chúng tôi hôm nọ phải đưa tay ôm ngực vì đôi vú của bà ta cũng nhảy chồm lên như chiếc xe. Sau đó ông tài xế bị đi tù. Theo chúng tôi và những người trong làng, đó không phải là một vụ tai nạn.
Sau đó tôi bị ốm trong một thời gian dài. Tôi luôn mường tượng ra cảnh tôi nhấc cái đầu bị xe cán bẹp nát của con bé ấy lên và tôi sợ bố mẹ tôi vì tất cả những điều mà họ nói về con bé. Có lẽ nó làm một chuyện xấu xa gì đấy, nhưng tôi không biết là chuyện gì. Tôi chỉ biết là người ta bảo nó là charmuta. Ban đêm tôi không ngủ được, lúc nào tôi cũng nhìn thấy cái đầu bị cán bẹp dí của con bé, tôi nghe thấy tiếng bánh xe lăn khi chiếc xe chạy thụt lùi. Không bao giờ tôi quên được hình ảnh con bé ấy. Mặc dù chính tôi cũng đã trải qua không ít những tình huống đau đớn nhưng hình ảnh ấy vẫn cứ gán chặt trong tâm trí tôi. Con bé cũng trạc tuổi tôi, tóc cắt ngắn khá đẹp. Cũng lạ ở chỗ là nó lại cắt tóc ngắn, bọn con gái trong làng không cắt tóc ngắn bao giờ. Vậy thì tại sao chỉ mình nó cắt? Nó khác hẳn chúng tôi, nó ăn mặc đẹp hơn. Chuyện gì đã khiến mọi người xem nó là charmuta? Tôi không bao giờ biết được. Nhưng tôi biết rõ chuyện của tôi.
- o O o -
Càng lớn lên, tôi càng trông đợi mình sớm được lấy chồng. Trông đợi với rất nhiều hy vọng. Nhưng chị Kainat không được ai hỏi đến và hình như chị không có vẻ gì lo lắng cả. Như thể chị đã chấp nhận trở thành một gái già, một việc mà tôi cho là rất kinh khủng cho cả chị và tôi vì tôi đang đợi đến lượt mình.
Tôi bắt đầu cảm thấy xấu hổ mỗi khi đến dự lễ cưới của người khác, tôi sợ bị người ta chế giễu. Lấy chồng để được tự do là điều tốt đẹp nhất mà tôi có thể mong mỏi. Tuy nhiên ngừơi đàn bà dù có chồng nếu dại dột làm chuyện sai trái vẫn mất mạng như chơi. Tôi còn nhớ câu chuyện về một chị đã có bốn con. Chồng chị chắc là viên chức làm việc ngoài thành phố vì lúc nào cũng thấy mặc áo vest. Mỗi lần gặp trên đường, tôi đều thấy anh ta đi nhanh, đôi giày làm cát tung bụi mù phía sau lưng anh ta.
Chị vợ anh ta tên là Souheila, và một hôm, tôi nghe mẹ tôi bảo trong làng người ta bàn tán về chị ta. Họ nghĩ là chị có dan díu với người chủ của cửa hàng vì chị ta thường đến đấy mua bánh mì, rau củ quả. Có lẽ nhà chị ta không có vườn rộng như nhà chúng tôi. Có lẽ chị ta đã lén lút đi lại với người đàn ông đó như mẹ tôi đã lén lút đi lại với Fadel. Một ngày kia, mẹ tôi kể là hai người anh ruột đã đến đến tận nhà và chặt đầu chị ta. Họ để cái xác lại trên sàn nhà và mang cái đầu đi diễu khắp làng. Mẹ cũng nói là khi anh chồng đi làm về nghe tin vợ bị chặt đầu thì anh ta mừng lắm vì chị ta bị nghi ngờ đã lăng nhăng với người chủ cửa hàng. Mặc dù chị ra không đẹp lắm và chị đã có bốn con.
Tôi không trông thấy hai người đàn ông mang đầu em gái mình đi diễu trong làng mà chỉ nghe mẹ tôi kể lại. Tôi cũng đã đủ lớn để hiểu, nhưng tôi không sợ. Có lẽ vì tôi không trông thấy gì, chắc chắn là như vậy. Trong thâm tâm, tôi cho rằng gia đình tôi chẳng có ai là charmuta cả nên những chuyện ấy có lẽ không xảy đến với tôi. Những người đàn bà ấy bị trừng phạt cũng là lẽ thường thôi. Còn bình thường hơn chuyện con bé trạc tuổi tôi bị ôtô cán chết.
Tôi không thể ngờ được rằng những mẩu chuỵên ngồi lê đôi mách tầm thường, những điều phỏng đoán bóng gió của hàng xóm, thậm chí những chuyện bịa đặt dối trá lại có thể biến bất cứ người phụ nữ nào thành charmuta và đẩy người ấy đến chỗ chết để bảo toàn danh dự của người khác.
Đó là cái mà người ta gọi là tội ác vì danh dự, “jarimat al sharaf”, và đối với những người đàn ông ở đất nước tôi thì đó là không phải là tội ác.